Bệnh thối đen lép lửng – Những thông tin cơ bản về bệnh

Bệnh thối đen lép hạt lúa do vi khuẩn Pseudomonas glumae gây ra là một trong những loại bệnh khá phổ biến tại khắp các vùng trồng lúa nước trên thế giới. Ở Việt Nam cũng không phải ngoại lệ, hiện nay bệnh lem lép hạt lúa trở nên rất phổ biến ở các vùng trồng lúa ở nước ta đang có xu hướng gia tăng về diện tích và mức độ gây hại. Cứ vào mùa vụ là chân ruộng nào cũng có bệnh, không có một giống lúa nào chịu được bệnh này. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu về biểu hiện, đặc điểm phát triển của bệnh thối đen lép lửng hạt lúa và biện pháp khắc phục tình trạng trên qua bài viết dưới đây.

1.Biểu hiện của bệnh thối đen lép lửng

Hình ảnh bệnh thối đen lép lửng
Hình ảnh bệnh thối đen lép lửng
  • Vi khuẩn gây bệnh có thể gây hại, xâm nhập trên hạt và cây mạ non. Giai đoạn nhạy cảm là từ khi lúa trỗ đến khi chín sữa, vi khuẩn sẽ xâm nhập vào hoa và vỏ hạt. Lúc mới đầu khi bị bệnh thì phần vỏ trấu của phôi hạt lúa sẽ chuyển màu thành màu vàng nhạt, ở bên ngoài vỏ các vết bệnh nhanh chóng lan ra khắp toàn bộ vỏ trấu. Hạt lúa sẽ chuyển dần từ màu trắng kem sang màu nâu, hoặc màu nâu đỏ nhạt. Những hạt bị bệnh có thể nhìn rõ ranh giới giữa các mô khoẻ và mô bệnh là đường màu nâu cắt ngang ở trên vỏ hạt. Nếu nghiêm trọng thì vỏ trấu sẽ có màu vàng nhạt, hạt lép toàn bộ, phần phôi hạt màu nâu, hạt gạo không đầy phôi mủn, dễ gãy có màu trắng đục, nâu xám hoặc đen.Trong trường hợp cả bông lúa bị bệnh thì bông lúa đứng thẳng trông giống như sâu đục thân phá hại, nhưng khác một chỗ là vỏ trấu màu vàng nhạt.
  • Ngoài ra thì biểu hiện bệnh khi gây hại ở giai đoạn mạ là: ở bẹ của cây mạ non xuất hiện chấm màu nâu, chuyển dần sang màu nâu đậm, vết bệnh lan rộng xuống gốc, không có hình thù đặc trưng. Ở cuối giai đoạn phát triển của bệnh thì vết bệnh bị thối nhũn, trên toàn bộ bẹ lá vết bệnh có màu nâu đậm chuyển sang màu nâu đen và gây thối mạ. Triệu chứng bệnh thối đen trên cây mạ non thể hiện ở chỗ cây non bị lụi đi không phát triển, lá mạ bị úa vàng ở phần lá phía dưới, lá chuyển từ màu nâu sang thành màu nâu đậm.

2.Đặc điểm phát triển của bệnh thối đen lép lửng

  • Bệnh thối đen lép hạt lúa gây hại ở các thời vụ như: chiêm xuân, hè thu và vụ lúa mùa. Miền Bắc bệnh thường gây hại nhiều hơn trong vụ mùa, nhất là trà lúa mùa sớm trổ vào cuối tháng 8 đầu tháng 9, do thời điểm này thường có điều kiện thời tiết thuận lợi cho quá trình xâm nhiễm gây bệnh. Vụ mùa muộn có tỉ lệ nhiễm bệnh thấp nhất. Các tỉnh miền Trung và Nam Bộ bệnh phát triển mạnh mẽ ở vụ mùa hè thu, phát bệnh nhẹ hơn vào vụ lúa đông xuân.
  • Bệnh này phát triển thuận lợi trong điều kiện nhiệt độ và độ ẩm cao, bệnh có biểu hiện rõ vào giai đoạn chín sữa. Nếu bị bệnh sớm vào giai đoạn từ khoảng 4-5 ngày sau trỗ thì mức độ gây hại của bệnh sẽ nặng hơn, rồi sau đó giảm dần mức độ nhiễm bệnh trong vòng 11 ngày sau trỗ, nghĩa là bệnh phát sinh kể từ khi lúa trỗ trong 20-25 ngày. Đến giai đoạn chín sáp khả năng gây bệnh của vi khuẩn sẽ chậm hơn hoặc gần như không còn phát triển nữa. Thời kì ủ bệnh vào khoảng 5-7 ngày. Tuỳ thuộc vào số lượng vi khuẩn mà mức độ bệnh sẽ tăng.
  • Những chân ruộng cao và hẩu trũng bệnh gây hại nặng hơn so với chân ruộng vàn. Nếu như bón quá muộn với liều lượng cao, không cân đối với lân và kali thì khả năng nhiễm bệnh sẽ cao, bệnh càng nặng hơn. Bên cạnh đó thời kỳ và kỹ thuật bón cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển, phát sinh của bệnh. Nếu bón N, P, K kết hợp, tập trung vào thời kì bón lót và làm cỏ đợt 1 thì tỉ lệ bệnh sẽ giảm một cách rõ rệt so với bón đạm vào thời kỳ lúa phân hoá đòng mà không kết hợp bón kali.
  • Các giống lúa khác nhau thì mức độ nhiễm bệnh khác nhau. Tất cả các giống lúa sản xuất hiện nay đều có khả năng bị nhiễm bệnh.
  • Trước thời kì trỗ hoa tầm 27 ngày, nếu phun vi khuẩn lên trên lúa thì vi khuẩn có thể gây bệnh trên bẹ lá lúa, bẹ lá đòng và sau đó lây lan lên bông lúa khi trỗ. Tỉ lệ bẹ lá đòng nhiễm vi khuẩn liên quan đến tỉ lệ hạt bị thối do lây nhiễm vi khuẩn vào sau 1 tuần trỗ bông. Vi khuẩn tồn tại ở hạt nằm trên bề mặt mày hạt và mặt trong của vỏ trấu, hay ở trên cây lúa bệnh bị vùi trong đất sau khi thu hoạch và làm chết thối cây mạ khi mọc ra từ hạt bị bệnh sau khi gieo sạ lúa ở vụ sau.
Đặc điểm của bệnh thối đen lép lửng
Đặc điểm của bệnh thối đen lép lửng

3.Biện pháp khắc phục

  • Phải xử lý hạt giống trước khi gieo cấy để có thể giảm nguồn bệnh. Xử lý hạt giống bằng nước nóng khoảng 54 độ C trong vòng 10 phút hay sấy khô hạt ở nhiệt độ 65 độ C trong 6 ngày. Có thể xử lý bằng thuốc hoá học như: thuốc Starner 20WP ở nồng độ 0,2%, hay Batocide ở nồng độ 0,15% ngâm hạt trong 24 giờ, sau khi rửa đãi sạch thì tiếp tục ngâm ủ theo yêu cầu kỹ thuật. Trường hợp cần thì trên ruộng lúa giống có thể phun Starner ở nồng độ 0,2% vào trước trỗ 2 ngày đến khi chớm trỗ 5% phun thuốc lần 2 sau khi lúa trỗ hoàn toàn.
  • Chọn lọc giống tốt, giống khoẻ, lấy hạt ở những ruộng không bị nhiễm bệnh để làm giống, sử dụng những giống lúa có khả năng chống chịu được bệnh, phù hợp với mỗi thời vụ và vùng sinh thái.
  • Phải làm đất, diệt cỏ dại, bón phân cân đối N, P, K phù hợp với từng giai đoạn sinh trưởng của cây. Không nên bón quá nhiều đạm, không bón đạm muộn vào thời kì lúa trước và sau khi trỗ bông từ 5-10 ngày để giảm mức độ nhiễm bệnh.
Biện pháp khắc phục thối đen lép lửng
Biện pháp khắc phục thối đen lép lửng
  • Điều chỉnh thời vụ trồng để tránh giai đoạn lúa trỗ trùng vào thời kì nóng, ẩm, mưa nhiều.
  • Sử dụng chế phẩm sinh học từ vi khuẩn đối kháng (như chủng Kyu-A-891) phun vào thời kì lúa sắp trỗ, xử lí hạt lúa ngâm ở trong dung dịch dòng vi khuẩn mất tính độc P.glumae N750 hay 7503 rồi sau đó gieo hạt.

Hi vọng qua bài viết trên sẽ giúp mọi người hiểu rõ hơn về biểu hiện, đặc điểm phát triển của bệnh thối đen lép lửng hạt lúa và sớm khắc phục được tình trạng trên một cách hiệu quả.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *